Làm dâu bảy năm, chưa bao giờ tôi nghĩ một món ăn lại có thể trở thành ranh giới khiến cuộc hôn nhân của mình rơi vào bế tắc. Nhà chồng tôi vốn sống kín đáo, ít nói, mỗi người một kiểu. Ngày mới về làm dâu, mẹ chồng chỉ dặn một câu duy nhất: trong nhà tuyệt đối không nấu món canh hến . Tôi không hiểu vì sao, nhưng nghĩ đó là kiêng kỵ gia đình, giống như nhiều nơi tránh món này món kia trong ngày giỗ tết, nên cũng không hỏi thêm.
Những năm đầu, mọi thứ trôi qua êm đềm. Nhưng đến khi bố chồng tôi bắt đầu lẫn sau một cơn tai biến nhẹ, mọi chuyện dần thay đổi. Ông hay quên, lúc tỉnh lúc mê, nhiều đêm đi quanh nhà gọi những cái tên xa lạ. Cả nhà quen dần, chỉ cố giữ mọi thứ bình yên nhất có thể.
Một chiều cuối tuần, tôi đi làm về muộn, người mệt lử. Trên đường, tôi ghé chợ mua đại ít đồ, thấy hàng hến sạch bày rất đẹp, nhớ cảnh ngày xưa mẹ tôi hay nấu canh hến cho hai chị em, bỗng thèm hương vị quê nhà da diết. Tôi ngần ngại một chút nhưng vẫn mua, nghĩ đơn giản rằng mọi người không thích thì tôi nấu phần riêng cho mình.

Tôi vừa nấu xong thì bố chồng từ phòng bước ra. Ông đứng sững ở cửa bếp, mặt tái đi, ánh mắt như xuyên qua tôi rồi chao đảo. Ông gọi một cái tên mà đến lúc ấy tôi mới biết: tên đứa con gái đầu lòng đã mất từ khi mới tám tuổi – một cái tên chưa từng được ai trong nhà nhắc lại.
Tôi chết lặng.
Sau này, tôi mới được kể rằng bé mất đột ngột vì dị ứng nặng sau khi ăn món canh hến lần đầu tiên trong đời. Nghe nói vì bố chồng chủ quan mà cấp cứu muộn nên con bé không qua khỏi. Tai nạn đó trở thành nỗi đau lớn đến mức cả nhà âm thầm kiêng món ấy suốt mấy chục năm. Không phải mê tín, không phải thói quen kỳ lạ chỉ là vết thương không ai đủ can đảm chạm lại.
Tối hôm đó, bố chồng ôm tôi khóc như thể gặp lại đứa con thất lạc. Trong cơn lú lẫn, ông liên tục nắm tay tôi, miệng run rẩy gọi tôi bằng tên bé. Mẹ chồng ngồi bên cạnh cũng không giấu nổi nỗi hoảng loạn. Chồng tôi từ lúc ấy không nói với tôi một lời.
